Qua trích đoạn Nỗi oan hại chồng trong vở chèo Quan Âm Thị Kính, em hiểu thế nào về thành ngữ "Oan Thị Kính"?
Nêu chủ đề của trích đoạn “Nỗi oan hại chồng”. Em hiểu thế nào về thành ngữ "Oan Thị Kính"?
• Chủ đề của đoạn trích: Số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Đây là một chủ đề khá quen thuộc trong văn học trung đại. Bởi lẽ đây là thời kì phong kiến, thời kì mà mọi quyền lực trong gia đình, xã hội nằm trong tay của người đàn ông. Người ta hay gọi chế độ phong kiến là chế độ nam quyền độc đoán, chế độ trọng nam khinh nữ. Điều này cũng đồng nghĩa với việc người phụ nữ là những người không có tiếng nói trong gia đình, trong xã hội. Tiếng nói của họ bị coi rẻ, giá trị của họ bị phủ nhận, nhân cách của họ bị chà đạp. Đau đớn hơn nữa, người phụ nữ còn phải hứng chịu một cái nhìn hà khắc với những quy tắc, khuôn mẫu ngặt nghèo, khắt khe của xã hội: tam tòng (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử) và tứ đức (công, dung, ngôn, hạnh). Nếu chỉ thiếu một trong những thứ ấy, hoặc chỉ làm sai một việc nhỏ, người phụ nữ cũng sẽ bị hành hạ, đay nghiến, xúc phạm.
• Câu thành ngữ "Oan Thị Kính" để chỉ những nỗi oan khiên không thể thanh minh, khiến cho người đó rơi vào hoàn cảnh bế tắc, tuyệt vọng, không có lối thoát.
Thảo luận: Nêu chủ đề của trích đoạn nỗi oan hại chồng. Em hiểu thế nào về thành ngữ “Oan Thị Kính”.
- Chủ đề: Đoạn trích Nỗi oan Thị Kính thể hiện được những phẩm chất tốt đẹp cùng nỗi oan bi thảm, bế tắc của người phụ nữ và sự đối lập giai cấp thông qua xung đột gia đình, hôn nhân trong xã hội phong kiến.
- Thành ngữ “Oan Thị Kính” chỉ những oan ức quá mức chịu đựng không thể giãi bày.
Chủ đề của đoạn trích Nỗi oan hại chồng thể hiện phẩm chất tốt đẹp cùng nỗi oan ức và sự bế tắc đến cùng cực của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Sự đối lập giữa hai giai cấp thống trị và bị trị rất gay gắt thông qua xung đột hôn nhân, xung đột gđ.
Chủ đề chính của vở chèo Quan Âm Thị Kính có thể tóm gọn trong một chữ Oan. Nỗi oan khuất của người phụ nữ được tập trung cao độ và sâu sắc trong vở chèo này.
Thành ngữ Oan Thị Kính được dùng để nói đến những nỗi oan trái đến mức phi lí, người bị oan không thể thanh minh về nỗi oan khiên của mình. Xuất phát từ câu chuyện của Thị Kính, một người phụ nữ ngoan hiền, hết lòng yêu thương chồng; thế nhưng chỉ vì một hành động nhỏ nhặt mà bị vu oan đến mức tan vỡ hạnh phúc, bị đay nghiến tàn nhẫn, bị trả về cho bố mẹ đẻ một cách tủi nhục, uất ức.Định nương nhờ cửa Phật để tìm sự thanh thản trong lòng,
nhưng ở đây Thị Kính lại bị Thị Mầu vu oan tội làm cho thị có thai. Thị Kính lại bị đuổi khỏi chùa, phải ra ở tam quan, chịu khổ nhục, oan ức một lần nữa. Nỗi oan khiên tày trời của nàng được đúc kết qua hai câu thơ:
Chủ đề của đoạn trích nỗi oan hại chồng: đoạn trích thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của Thị Kính và những nỗi oan, bê' tắc của nàng cũng như của không ít người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Qua đó phản ánh những đối lập giai câ'p thông qua xung đột gia đình, hôn nhân trong xã hội phong kiến.
Thành ngữ “Oan Thị Kính” đã được phổ biến rộng rãi trong đời sống hằng ngày của nhân dân lao động. Mọi người dùng thành ngữ này để nói lên những nỗi oan khuất quá mức, cùng cực không thể nào giải toả được của con người nói chung.Em hiểu gì về nhân vật Sùng bà và thị kính trong đoạn trích " nỗi oan hại chồng" trong quan âm thị kính?
Trong đó Thị Kính và Sùng bà là hai nhân vật chính, thể hiện xung đột cơ bản của vở chèo:
- Sùng bà thuộc kiểu nhân vật mụ ác, đại diện cho giai cấp thống trị, thuộc tầng lớp địa chủ phong kiến.
- Thị Kính thuộc loại nhân vật nữ chính (mụ ác và nữ chính là hai loại nhân vật rất tiêu biểu, thường xuất hiện trong chèo). Thị Kính tiêu biểu cho người dân thường, nhất là cho người phụ nữ vốn phải chịu nhiều thua thiệt trong xã hội cũ.
là 1 người hiền lành có tấm lòng nhân hậu
GIÚP MK NHÉ!!!!!!!!!!
mk đang cần lời chèo (làn điệu vdụ a í a...) cửa đoạn trích nỗi oan hại chồng trong vở chèo quan âm thị kính
Mk cần gấp
GIÚP MK NHÉ!!!!!!!!!!
mk đang cần lời chèo (làn điệu vdụ a í a...) cửa đoạn trích nỗi oan hại chồng trong vở chèo quan âm thị kính
Mk cần gấp
Trong đoạn trích “Nỗi oan hại chồng”, khi nào lời kêu oan của Thị Kính mới nhận được sự cảm thông? Em có nhận xét gì về sự cảm thông đó?
• Những lần kêu oan của Thị Kính với Sùng ông, Sùng bà và Thiện Sĩ hoàn toàn không nhận được sự cảm thông mà là sự buộc tội lạnh lùng của những con người ấy. Sùng bà không để Thị Kính nói lời giải thích, không để nàng giãi bày nỗi oan khiên. Thậm chí, chồng nàng là Thiện Sĩ, người đầu ấp tay gối, suốt ngày ở bên cạnh cũng không hề tin tưởng và nhân cách, đức hạnh của nàng. Hắn không hề lên tiếng bênh vực cũng không hề hỏi vợ sự tình là thế nào mà nghe theo lời mẹ, buộc tội Thị Kính, ngầm đồng ý để Sùng bà đuổi Thị Kính về nhà mẹ đẻ.
• Lời kêu oan của Thị Kính với cha mới nhận được sự cảm thông, thấu hiểu. Mãng ông là người đã sinh ra và nuôi dạy Thị Kính nên ông biết rõ con gái mình là người đức hạnh, nết na. Ông thương con nhưng không biết kêu oan cho con thế nào. Ông chỉ có thể đưa Thị Kính về nhà để "cha liệu cho con".
Hãy liệt kê và nêu nhận xét của em về hành động và ngôn ngữ của Sùng bà đối với Thị Kính trong trích đoạn “Nỗi oan hại chồng”?
Hành động:
● Dúi đầu Thị Kính xuống đất
● Dúi tay Thị Kính ngã khuỵu xuống
● Đuổi Thị Kính về nhà với ông Mãng
Ngôn ngữ:
● Con mặt sứa gan lim
● Bay là mèo mả gà đồng lẳng lơ
● Câm đi!
● Trên dâu dưới Bộc hẹn hò
● Chém bổ băm vẩm xích mặt
● Phi mặt gái trơ như mặt thớt
● Ngựa bất kham, đồng nát, gái nỏ mồm
● Liu điu, con nhà cua ốc
● Đồ sát chồng
Nhận xét: Sùng bà đã sử dụng những từ ngữ cay nghiệt và hành động dứt khoát để sỉ nhục và buộc tội Thị Kính, không chỉ tội mưu sát chồng, mà còn cả tội lẳng lơ, trai gái, không đứng đắn. Người phụ nữ tội nghiệp ấy không được lên tiếng để buộc tội cho chính mình vì bị gạt phắt đi bởi lời khẳng định chắc chắn của Sùng bà.
Trong trích đoạn “Nỗi oan hại chồng”, mấy lần Thị Kính kêu oan? Kêu với ai?
Trong trích đoạn, Thị Kính đã kêu oan năm lần:
● 3 lần kêu oan với Sùng bà: Giời ơi! Mẹ ơi, oan cho con lắm mẹ ơi!; Oan cho con lắm mẹ ơi! Chàng học khuya mỏi mệt, Con thấy râu mọc ngược dưới cằm...; Mẹ xét tình cho con, oan con lắm mẹ ơi!
● Một lần kêu oan với Thiện Sĩ (chồng): Oan cho thiếp lắm chàng ơi!
● Một lần kêu oan với Mãng ông (Cha): Cha ơi! Oan cho con lắm cha ơi!
Qua cử chỉ và ngôn ngữ nhân vật, hãy phân tích tâm trạng Thị Kính trước khi rời khỏi nhà Sùng bà trong trích đoạn “Nỗi oan hại chồng”.
• Trước khi rời khỏi nhà Sùng bà, Thị Kính đã quay vào nhà "nhìn từ cái kỉ sách, thúng khâu rồi cầm lấy chiếc áo đang khâu dở, bóp chặt trong tay". Hành động ấy của nàng cho ta thấy một sự lưu luyến với mối duyên vợ chồng này, bởi đây là nơi nàng đã sống và từng có quãng thời gian hạnh phúc, yên ấm "bấy lâu sắt cầm tịnh hảo" bên Thiện Sĩ. Nhưng hành động bóp chặt cái áo trong tay là sự bàng hoàng, uất ức cũng là sự cam chịu trước số phận hẩm hiu, bi thảm của mình khi phải xa chồng còn mang án oan suốt đời không thể rửa sạch, án giết chồng.
Nêu cảm nghĩ của em về thân phận người phụ nữ thời phong kiến thông qua Thị Kính trích nỗi oan hại chồng
Quan Âm Thị Kính là vở chèo cổ nổi tiếng của sân khấu chèo. Nội dung của vở chia làm ba phần. Phần 1 là Án giết chồng: Thiện Sĩ, con trai Sùng ông, Sùng bà gia đình khá giả, kết duyên cùng Thị Kính, con gái Mãng ông, một nông dân nghèo. Một hôm, vợ ngồi khâu, chồng đọc sách rồi thiu thiu ngủ. Thấy chồng có sợi râu mọc ngược, Thị Kính cầm dao khâu toan xén đi. Thiện Sĩ giật mình hoảng sợ vội hô hoán lên, Sùng bà giận dữ đổ riệt cho con dâu có ý giết chồng, mắng chửi thậm tệ và đuổi Thị Kính về nhà bố đẻ. Phần 2 là Án hoang thai: Bị oan ức nhưng không thể thanh minh, Thị Kính đành giả trai, vào tu ở chùa Vân Tự, lấy pháp danh là Kính Tâm. Thị Mầu, con gái phú ông, vốn tính lẳng lơ, đem lòng say mê chú tiểu Kính Tâm. Ve vãn Kính Tâm không được, Thị Mầu ăn nằm với anh Nô là đầy tớ rồi có thai. Làng bắt vạ. Bí thế, Thị Mầu đổ cho Kính Tâm. Kính Tâm chịu oan, bị sư cụ đuổi ra ở ngoài tam quan (cổng chùa). Thị Mầu đem con bỏ cho Kính Tâm. Phần 3 là Oan tình được giải, Thị Kính lên tòa sen: Trải qua ba năm, Kính Tâm đi xin sữa từng ngày nuôi con của Thị Mầu. Rồi nàng “hoá” (chết), được lên tòa sen, trở thành Phật Bà Quan Âm. Trước khi “hóa”, Kính Tâm viết thư để lại cho đứa trẻ. Bấy giờ mọi người mới biết Kính Tâm là gái và hiểu rõ tấm lòng từ bi nhẫn nhục của nàng.
Nỗi oan hại chồng và cái án hoang thai là hai cái nứt chính của vở chèo. Qua đó, tác giả dân gian phản ánh bi kịch trong thân phận của người phụ nữ nghèo khổ thời phong kiến. Hai sự kiện thuộc hai mảnh đời khác nhau của Thị Kính nhưng chúng có liên hệ chặt chẽ với nhau. Cái nào cũng éo le và đau đớn nhưng mỗi cảnh ngộ lại có một vẻ riêng. Chúng kết hợp với nhau, bổ sung cho nhau để hoàn chỉnh tấn bi kịch về cuộc đời người phụ nữ. Bên cạnh nội dung đó, vở chèo còn có dụng ý đề cao phẩm chất cao quý của người phụ nữ và lên án cái xấu, cái ác trong xã hội phong kiến ngày xưa.Trích đoạn Nỗi oan hại chồng là cốt lõi trong phần mở đầu của vở chèo. Phần này có năm nhân vật tham gia vào quá trình tạo nên xung đột kịch và làm nền cho nhân vật Thị Kính bộc lộ phẩm chất cao đẹp. Thiện Sĩ và Sùng ông là những kẻ nhu nhược, không có chủ kiến, chỉ đóng vai phụ để làm nổi bật tính cách điêu ngoa, nanh ác của Sùng bà. Xung đột cơ bản của vở chèo được thể hiện qua mâu thuẫn giữa Sùng bà và Thị Kính (mẹ chồng, nàng dâu). Sùng bà thuộc loại nhân vật mụ ác, đại diện cho tầng lớp địa chủ phong kiến với những thói hư tật xấu như hợm của, tự phụ về dòng giống cao sang, cả vú lấp miệng em, luôn lấy mình làm chuẩn mực để xem xét đánh giá người khác theo nhận thức hồ đồ của mình. Thị Kính thuộc loại nhân vật nữ chính trong chèo, đại diện cho người phụ nữ lao động nghèo. Thị Kính là nàng dâu ngoan hiền nết na, thùy mị nhưng bị Sùng bà nanh ác đổ oan buộc tội giết chồng. Gia đình nhà chồng đã gây ra cho Thị Kính những nỗi oan chồng chất. Nàng bị hàm oan, hạnh phúc tan vỡ đuổi khỏi nhà chồng và đau khổ nhất là phải chứng kiến cảnh người cha thân yêu bị sỉ nhục.
Mâu thuẫn giữa Sùng bà và Thị Kính về hình thức là xung đột trực tiếp giữa mẹ chồng nàng dâu nhưng về bản chất lại là mâu thuẫn sâu sắc giữa kẻ thống trị và người bị trị. Đó là cái nút đầu tiên trong vở chèo bộc lộ thân phận, địa vị thấp kém của người phụ nữ nghèo trong quan hệ gia đình và hôn nhân phong kiến.
Mở đầu là cảnh sinh hoạt đầm ấm, (vợ vá may thêu thùa, chồng đọc sách), tuy không phổ biến và gần gũi như cảnh chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa trong ca dạo nhưng nó cũng thể hiện khát vọng về hạnh phúc gia đình của nhân dân lao động. Trong khung cảnh ấy nổi bật lên hình ảnh người vợ thương chồng. Những cử chỉ của Thị Kính đối với Thiện Sĩ rất ân cần, dịu dàng. Khi chồng học bài mệt mỏi ngủ thiếp đi, nàng dọn lại kỉ rồi ngồi quạt cho chồng. Thấy sợi râu mọc ngược dưới cằm chồng, nàng băn khoăn lo lắng về một điềm báo chẳng lành. Thị Kính muốn làm đẹp cho chồng và cho mình: Trước đẹp mặt chồng, sau đẹp mặt ta… Dạ thương chồng, lòng thiếp sao an. Âu dao bén, thiếp xén tày một mực. Tâm trạng của nàng là tâm trạng của người vợ yêu thương chồng thắm thiết. Việc làm đầy thiện ý của Thị Kính chưa kíp thực hiện thì Thiện Sĩ chợt giật mình choàng thức dậy, hốt hoảng nắm lấy dao kêu lên: Hỡi cha!. Hỡi mẹ Ị Hỡi xóm! Hời làng! Đêm hôm khuya khoắt bỗng làm sao thấy sự bất thường… khiến cho cả nhà tỉnh giấc. Chẳng cần hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện ra sao, Sùng bà đã sừng sộ khép ngay Thị Kính vào tội giết chồng: Cái con mặt sứa gan lim này ! Mày định giết con bà à? Thái độ của Sùng bà rất thô bạo và tàn nhẫn. Khi Thị Kính khóc lóc van xin được thanh minh, Sùng bà dúi đầu Thị Kính ngã xuống Tồi lại bắt nàng ngửa mặt lên để nghe mụ chửi, chứ không cho phân bua, thanh minh gì cả. Sùng bà nói với Thị Kính toàn là những lời đay nghiến, mắng nhiếc, lăng mạ. Dường như mỗi lần mụ cất lời, Thị Kính lại bị kết thêm một tội.